Cổ nhân nói như vậy. Thống kê cho thấy, tỉ lệ mắc bệnh trĩ vào khoảng 30 – 35%. Trong khi đó, đa số người bệnh lại thường ngại đi khám (nhất là phụ nữ), tự chữa ở nhà, cho đến khi bệnh quá nặng mới đến bệnh viện.
Trĩ là bệnh giãn quá mức các tĩnh mạch thuộc đám rối tĩnh mạch ở hậu môn – trực tràng gây viêm sưng đau hoặc xuất huyết, thường gặp ở người trên 40 tuổi.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây bệnh
Táo bón kéo dài: thường gặp ở những người ăn nhiều đồ cay nóng, uống nhiều rượu bia, hút thuốc lá, uống cà phê… làm cho người bệnh khi đại tiện phải rặn mạnh làm tăng áp lực trong ổ bụng, cản trở máu lưu thông trong các tĩnh mạch ở vùng hậu môn.
Rối loạn nhu động ruột như: táo bón, tiêu chảy, mót rặn…
Người cao tuổi và phụ nữ mang thai: do sức đề kháng giảm, hệ tĩnh mạch kém bền vững, rối loạn nội tiết tố, thai gây cản trở máu về tĩnh mạch chủ…
Mắc một số bệnh mãn tính gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa: xơ gan, tăng huyết áp.
Béo phì: do gia tăng áp lực tĩnh mạch trực tràng.
Thói quen ngồi nhiều, đứng lâu, ít vận động, mang vác nặng: có nhiều người do công việc phải ngồi nhiều như: thợ may, lái xe, những người làm nghề văn phòng. Có những người khi làm việc phải đứng lâu, mang vác nặng như: thợ cơ khí, thợ khuân vác, vận động viên thể dục thể hình… Nhưng cũng có nhiều người có thói quen ngồi lỳ một chỗ như khi chơi bài, chơi game… Khi đó, sẽ gây tăng áp lực búi tĩnh mạch trực tràng, kéo dài mỗi ngày một chút, đến một lúc nào đó búi tĩnh mạch trĩ sẽ giãn phình ra và không tự co lại được, rồi hình thành bệnh trĩ.
Thói quen ăn uống: thiếu chất xơ, nhiều đồ cay nóng như rượu, bia, ớt, hạt tiêu… gây táo bón và giãn phình tĩnh mạch trĩ (thấp nhiệt), và dẫn tới bệnh trĩ.
Một số người mắc bệnh toàn thân như: rối loạn tiêu hóa, bệnh hô hấp (hen phế quản, viêm phế quản, giãn phế quản)… Theo Đông y, các bệnh này đều gây khí yếu và dẫn tới bệnh trĩ.
Phụ nữ mang thai và sau sinh đẻ: khi có thai thì dễ bị táo bón, sức khỏe yếu hơn, đồng nghĩa là hệ thống tĩnh mạch cũng yếu hơn. Đồng thời, thai càng lớn sẽ càng chèn gây tăng áp lực tĩnh mạch dưới, đồng thời gây cản trở lưu thông máu. Hai yếu tố này gây nên và gia tăng bệnh trĩ ở phụ nữ có thai. Khi sinh đẻ tự nhiên, động tác rặn đưa thai ra ngoài sẽ vô tình gây tăng áp lực tĩnh mạch trĩ quá mức cũng làm nặng thêm bệnh trĩ.
Triệu chứng
Thường gặp nhất là đại tiện ra máu tươi. Bệnh trĩ được chia làm 2 loại là trĩ nội và trĩ ngoại. Nếu búi tĩnh mạch nằm trên cơ thắt hậu môn thì gọi là trĩ nội. Nếu búi tĩnh mạch nằm dưới cơ thắt hậu môn và tụt ra ngoài hậu môn thì gọi là trĩ ngoại. Bệnh nhân có thể mắc trĩ nội hoặc trĩ ngoại hoặc cả nội lẫn ngoại. Trĩ nội để lâu ngày không điều trị cũng thường bị tụt xuống và sa ra ngoài làm bệnh nhân rất khó chịu. Búi trĩ có thể bị sưng đau rỉ máu tắc mạch trong búi trĩ dễ bị viêm nhiễm khi đi đại tiện. Do đó, nhiều người ngại không dám đi khám ngay từ đầu, để bệnh diễn biến nặng mới đi chữa .
Trĩ nội: trong một số ít trường hợp, người bệnh cảm thấy nằng nặng ở vùng hậu môn. Bệnh chỉ được phát hiện khi thấy đại tiện ra máu tươi phủ ngoài phân. Khi soi trực tràng mới thấy tĩnh mạch bị giãn to tạo thành những nốt phồng màu xanh tím.
Trĩ ngoại: những nốt phồng nói trên dài ra, có chân thò ra ngoài hậu môn, có khi thành búi như chùm nho hoặc to như con đỉa bám ngoài hậu môn, không co trở vào phía trong được nữa. Hay gặp là trĩ nội kèm trĩ ngoại.
Biến chứng
Hay gặp nhất là chảy máu, thường xuất hiện khi đại tiện. Nếu mất máu kéo dài, có thể làm bệnh nhân thiếu máu, da xanh lướt, gầy yếu. Khi bị viêm nhiễm và tắc nghẽn tĩnh mạch ở búi trĩ sẽ gây đau rát rất khó chịu. Ngoài ra có thể bị viêm, nứt hậu môn hoặc sa niêm mạc hậu môn-trực tràng. Bệnh trĩ tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng người bệnh phải chịu đau đớn và phiền toái trong sinh hoạt, ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động, đời sống.
Chẩn đoán
Về nguyên tắc, bệnh nhân nào bị trĩ cũng đều phải được soi trực tràng để có chẩn đoán chính xác. Ở những nơi chưa có đủ điều kiện thì tối thiểu người thầy thuốc cũng phải làm một động tác đơn giản là thăm khám hậu môn bằng ngón tay trỏ (thuật ngữ trong y khoa gọi là thăm trực tràng) để loại trừ polyp trực tràng hoặc ung thư trực tràng.
Nếu bạn cần thêm thông tin tư vấn có thể đăng ký ở phần dưới đây!